Anh Quốc Chủ quyền nghị viện

Lịch sử

Quốc hội bao gồm, theo luật sư (dù từ thường có ý nghĩa khác trong hội thoại), Nhà Vua, Thượng nghị viện và Hạ nghị viện, ba cơ quan hợp tác gọi là "Nhà Vua trong Quốc hội" và làm thành Quốc hội. Nguyên tắc bá quyền lập pháp chỉ như vậy thôi, nghĩa là Quốc hội định như trên, theo hiến pháp Anh Quốc, có quyền làm hay bãi bỏ mọi luật; hơn nữa, pháp luật Anh Quốc không công nhận bất cứ ai hay cơ quan nào có quyền bãi bỏ luật của Quốc hội

— A.V. Dicey Introduction to the Study of the Law of the Constitution (1885)

Vào thế kỷ 17 ở Anh Quốc, khái niệm Quốc hội, bao gồm Hạ viện và Thượng viện, chia sẻ chủ quyền cùng với Nhà Vua hình thành theo cách giải thích lịch sử Quốc hội sai lạc, mãi đến khi Luật lời thề đăng quang 1688 thay đổi Lời thề đăng quang do Cách mạng vinh quang thì Quốc hội mới công nhận là một phần của chính thể, pháp luật sau đấy bắt nguồn từ Nhà Vua và Quốc hội.[3] Năm sau, Luật quyền lợi 1689 và Luật quyền lợi Cách Lan 1689 thông qua, ấn định quyền lợi nhất định của Quốc hội Anh Quốc (bấy giờ bao gồm Xứ Wales), Cách Lan và hạn chế quân quyền.[4][5] Hơn nữa, năm 1698 Quốc hội làm Danh sách chi phó, là kế hoạch tài chính buộc Quốc vương phải phụ thuộc Quốc hội vì thu nhập.[6][7]

Sau năm 1689, chủ quyền nghị viện ở Anh Quốc rõ rệt trong mối quan hệ Quốc hội Anh Quốc, Cách Lan và Á Nhĩ Lan; Luật giải quyết 1701 xâm phạm Cách Lan, Cách Lan phản lại bằng Luật an ninh 1704, Anh Quốc quật lại bằng Luật người nước ngoài 1705. Cuối cùng vấn đề giải quyết bằng cách kết hợp nghị hội của Anh Quốc và Cách Lan mà thành lập Quốc hội Vương quốc, dù "chỉ là Nghị hội Anh Quốc mở rộng."[8] Tuy nhiên, tính hợp lý của cách giải thích trên dựa trên việc Nghị hội Anh Quốc cùng Nghị hội Cách Lan giao quyền lực của chúng cho Quốc hội Vương quốc theo Hiệp ước Liên hợp mà Luật liên hợp 1706/7 thi hành. Đúng hơn thì hai nghị hội cùng "dồn" quyền lực của chúng. Hoặc nguyên tắc chủ quyền nghị viện bắt nguồn từ Luật liên hợp 1707 hoặc nguyên tắc bắt đầu phát triển sau đạo luật,[9] quyền tự chủ của Nghị hội Á Nhĩ Lan cũng bị công kích và Luật Nghị hội Á Nhĩ Lan 1720 buộc nghị hội phải phụ thuộc Vương Quốc. "Luật thành lập 1782" loại trừ tính tối cao của Quốc hội Vương quốc với Á Nhĩ Lan trong thời gian ngắn, nhưng Nghị hội Á Nhĩ Lan sát nhập với Nghị hội Anh Quốc do Luật liên hợp 1800.

Nguyên tắc chủ quyền nghị viện có thể tóm tắt trong ba điểm:

  • Quốc hội có quyền làm luật về mọi loại việc
  • Quốc hội khóa này không thể ràng buộc Quốc hội khóa sau (không thể thông qua luật mà Quốc hội khóa sau không thể thay đổi)
  • Luật chính đáng của Quốc hội, tòa án không thể xem xét, Quốc hội là cơ quan lập pháp tối cao.

Vài học giả và thẩm phán không tin quan điểm truyền thống rằng Quốc hội không thể tự ràng buộc bản thân mà cho rằng cơ quan có thể tự áp đặt hạn chế thủ tục (hay "hình thức") lên bản thân vì Quốc hội triệu tập và hoạt động theo nghị quy.[10]

Nguyên tắc chủ quyền nghị viện bắt đầu bị thách thức bằng Luật quốc hội 1911, ý nghĩa của Quốc hội thay đổi theo lời tựa hối tiếc của Dicey trong Introduction to the Study of Law of the Constitution (1915) tái bản lần thứ tám, trong thực tế Nội các và chính đảng tối cao, tuy nhiên theo pháp luật Quốc hội vẫn có chủ quyền nghị viện mà phần của Hạ nghị viện tăng.

Pháp luật châu Âu không công nhận nguyên tắc chủ quyền nghị viện của Anh Quốc,[11] hiên tại tòa án Anh Quốc công nhận tính tối cao của luật Liên minh châu Âu với loại việc mà Liên minh có quyền làm luật về. Tuy nhiên tính tối cao này bắt nguồn từ Luật Cộng đồng châu Âu 1972 và luật sau này, Luật Liên minh châu Âu 2011 đinh rằng luật Liên minh có thể áp dụng chỉ bằng Luật Cộng đồng châu Âu hay luật khác có cùng vai trò.[12] Quốc hội bãi bỏ Luật 1972[13] vào năm 2019 và Anh Quốc thoát khỏi Liên minh châu Âu vào năm 2020, chứng minh rằng Quốc hội khóa trước không ràng buộc Quốc hội khóa sau.

Anh Quốc và Vương quốc Liên hợp

Sử gia người Mỹ lấy chủ quyền nghị viện làm lý do luật Anh Quốc không có khái niệm đúng thủ tục pháp lý của nước Mỹ,[14] có nhiều tranh luận rằng nguyên tắc cũng quan trọng trong việc Anh Quốc phát triển khái niệm quyền lợi tự do.[15]

Nguyên tắc chủ quyền nghị viện phát dương trong Luật Thiệt hại Chiến tranh 1965, Lord Bingham duy trì đạo luật trong vụ R (Jackson) với Tổng chưởng lý mà xử rằng:

Nền tảng của Hiến pháp Anh Quốc là... bá quyền của Quốc hội[16]

Tuy nhiên, chủ quyền pháp luật phải phân biệt với chủ quyền chính trị, Quốc hội không tối cao về mặt chính trị, nghĩa là nếu Quốc hội thông qua luật không phổ biến hay áp bức thì luật không thể thi hành trong thực tế; công chức chấp pháp trong các Bộ có thể dùng kẽ hở hay từ ngữ mập mờ trong luật mà không thi hành và tòa án[17] chắc chắn sẽ giải thích và lập án lệ cho khỏi thi hành. Tuy vậy nhưng không nghĩa rằng Quốc hội không có chủ quyền pháp luật mà vẫn có thể làm mọi luật theo nhiều quan điểm, điều này Lord Reid nói rõ trong vụ Madzimbamuto với Lardner-Burke [1969] 1 AC 645:

Thường nói rằng Quốc hội vi hiến nếu làm những việc nhất định, nghĩa là các lý do đạo đức, chính trị và lý do khác thuyết phục đến nỗi nhiều người sẽ xét hành vi ấy không đúng, nhưng vậy không nghĩa rằng hành vi ngoài quyền hạn của Quốc hội, nếu Quốc hội quyết định làm thì tòa án sẽ không tuyên bố luật vi hiến[18]

Cách Lan và những đạo luật liên hợp

Không chắc chắn rằng chủ quyền nghị viện bao gồm quyền tự ý sửa đổi Luật liên hợp.

Sự kiện gần đây

Trong những năm gần đây, vài thẩm phán và học giả ở Anh Quốc và New Zealand thách thức quan điểm truyền thống rằng Quốc hội tối cao,[19] người khác lại từ chối những luận điểm ấy.[20] Nhiều sửa đổi hiến pháp ở Anh Quốc đã ảnh hưởng cuộc tranh luận mới về chủ quyền nghị viện:

  1. Việc ủy quyền cho cơ quan lập pháp của Cách Lan (Nghị hội Cách lan), Xứ Wales (Đại hội Wales) và Bắc Á Nhĩ Lan (Đại hội Bắc Á Nhĩ Lan), ba cơ quan có quyền làm luật trong quyền hạn của chúng, nhưng mọi quyền lực đều bắt nguồn từ Quốc hội Anh Quốc và có thể thu hồi đơn phương. Như ví dụ, Đại hội Bắc Á Nhĩ Lan đã bị giải tán nhiều lần vì bế tắc chính trị.
  2. Tư cách thành viên Cộng đồng châu Âu, sau này Liên minh châu Âu, của Anh Quốc từ năm 1973. Theo Tòa án tối cao châu Âu, Liên minh châu Âu thay mặt "trật tự luật quốc tế mới, có lợi ích chỉ nếu nước thành viên hạn chế chủ quyền của họ trong địa phận nhất định". Anh Quốc gia nhập trật tự pháp lý, nhưng vì bằng luật của Quốc hội — chủ yếu Luật Cộng đồng châu Âu 1972 — nên Quốc hội có quyền làm luật đơn phương rời bỏ Liên minh hay ngưng việc thi hành luật châu Âu ở Anh Quốc. Luật Liên minh châu Âu 2011 tái khẳng định rằng chủ quyền ở Quốc hội Anh Quốc, điều 18 định rằng: "Luật châu Âu áp dụng hay hữu hiệu trực tiếp (quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ, hạn chế, phương tiện bảo vệ và thủ tục mà điều 2 (1) của Luật Cộng đồng châu Âu 1972 viện dẫn) công nhận và hữu hiệu ở Anh Quốc hội chỉ do chính nó hay cần phải công nhận và hữu hiệu bằng luật khác."[21] Luật cũng ấn định phải trưng cầu dân ý nếu muốn giao quyền cho Liên minh châu Âu (dù có thể bị luật khác bãi bỏ). Hoặc theo cuộc trưng cầu dân ý thoát Âu 2016, luật rời bỏ Liên minh châu Âu có thể đồng thời thông qua với việc theo thủ tục trong điều 50 của Hiệp ước Lisbon, theo ấy nước thành viên báo ý định rời bỏ với Hội đồng châu Âu và Liên minh cùng nước thương lượng về hiệp định thoát ly. Hiệp ước sẽ không áp dụng ở nước từ ngày có hiệp định hoặc hai năm sau khi có báo.
  3. Sau vụ Thoburn với Sunderland City Council vài luật xem như được bảo vệ như hiến luật, vụ này về sửa đổi với Luật cân đo lường 1985 của Lệnh 1994 về Luật cân đo lường 1985 (Hệ mét hóa) (Sửa đổi) theo Chỉ thị 80/111/EEC, định rằng đơn vị Anh Quốc được biểu lộ, miễn là có đơn vị hệ Mét lớn hơn biểu lộ cạnh. Thoburn bị kết tội vì chỉ trưng bày đơn vị Anh Quốc, ông bào chữa rằng việc cho phép dùng đơn vị Anh Quốc hạn chế không hợp với điều 2 (2) của Luật Cộng đồng châu Âu 1972, vậy nên điều đã bị bãi bỏ ngầm. Tuy nhiên thẩm phán Laws phán quyết rằng những đạo luật có tính quan trọng về mặt hiến pháp như Đại hiến chương và Luật Cộng đồng châu Âu 1972 không thể bị bãi bỏ ngầm, phán quyết cũng đem khái niệm "phân cấp pháp lý", có dùng ở các nước châu Âu khác, vào hiến luật Anh Quốc. Dù vậy, nếu Quốc hội biểu lộ dự định bãi bỏ bất cứ đạo luật nào thì mọi luật có thể bị bãi bỏ, duy trì chủ quyền nghị viện.
  4. Việc ban hành Luật nhân quyền 1998 hợp vài phần của Công ước châu Âu về Nhân quyền vào luật quốc gia, đạo luật cho phép tòa án Anh Quốc ban hành tuyên bố không tương thích nếu xét rằng luật của Quốc hội vi phạm quyền lợi mà Luật nhân quyền bảo đảm. Mục đích của tuyên ngôn không phải là bãi bỏ luật vi phạm mà là báo Quốc hội biết để cân nhắc sửa đổi. Việc này không vi phạm chủ quyền nghị viện vì Quốc hội có thể từ chối sửa đổi, theo nguyên tắc chủ quyền nghị viện Luật nhân quyền, như tư cách thành viên Liên minh châu Âu, có thể bị Quốc hội hủy bỏ, thậm chí việc phê chuẩn công ước không ngoài quyền hạn Quốc hội.

Tuy nhiên, Quốc hội về mặt lý thuyết có thể ngưng làm bổn phận của mình hay bãi bỏ mọi hạn chế áp đặt với quyền lập pháp.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chủ quyền nghị viện http://www.justice.gc.ca/eng/rp-pr/csj-sjc/constit... http://newindianexpress.com/nation/All-party-meet-... http://web.eduskunta.fi/Resource.phx/parliament/re... http://ukconstitutionallaw.org/2013/04/02/dawn-oli... http://www.ait.org.tw/infousa/zhtw/DOCS/Demopaper/... http://www.bl.uk/magna-carta/articles/britains-unw... http://www.legislation.gov.uk/ukpga/2011/12/sectio... http://www.nationalarchives.gov.uk/pathways/citize... http://www.parliament.uk/about/how/sovereignty/ http://www.parliament.uk/about/living-heritage/evo...